Trung Quốc - đất nước có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, người Trung Quốc đã đúc kết nên những di sản văn hóa vô cùng to lớn. Một trong số đó là tư tưởng Phật giáo. Phật giáo Trung Quốc gắng liền với nhiều sự kiện, câu chuyện thần kỳ và bí hiểm, trong đó có Tây Du Ký, một câu chuyện nói về hành trình đi Tây Thiên (Ấn Độ) thỉnh kinh của Pháp sư nhà Đường tên là Đường Huyền Trang, đây là một sự kiện có thật trong lịch sử Trung Quốc nói chung và Phật giáo Trung Quốc nói riêng.
Vào những năm đầu Công nguyên, Phật giáo đã du nhập vào Trung Quốc từ Trung Á, nhưng chỉ thật sự có tầm ảnh hưởng vào thế kỷ II (đời vua Minh Đế, nhà Hậu Hán). Kể từ đó, trải qua các triều đại phong kiến Trung Quốc, tư tưởng của Phật giáo luôn giữ một vị trí độc tôn trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ và được các đời vua lấy làm thước đo để trị vì đất nước.
Lịch sử Trung Quốc đã ghi lại nhiều nhân vật gắn liền với những bước chuyển mình của Phật giáo, trong đó nổi bật nhất là pháp sư Đường Huyền Trang. Song ngày nay vẫn có nhiều nguồn tài liệu viết không khớp, thậm chí lệch lạc về câu chuyện lịch sử thiêng liêng và ly kì này, làm người đời hiểu chưa đúng, có khi còn sai lệch về vị cao tăng này. Vì vậy, việc tìm lại một Đường Huyền Trang đúng trong lịch sử là một việc làm cần thiết hơn bao giờ hết của lớp hậu thế.
Thân thếvà con đường tìm đến Phật giáo của Đường Huyền Trang
Pháp sư Đường Huyền Trang có tên thật là Trần Huy (có sách ghi là Trần Vĩ), sinh vào khoảng năm 603 trong một gia đình gia giáo tại Lạc Dương, nằm ở phía Bắc, nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Cha ngài làm quan trong triều đình, nhưng vì bất mãn nên đã cáo lão về quê từ rất sớm.
Năm lên 5 tuổi, mẹ Huyền Trang qua đời. Sau đó 5 năm, cha ngài cũng mất sau một cơn bạo bệnh. Từ đó, Huyền Trang phải sống với những tháng ngày vất vả, cực khổ và tủi nhục, phải sống chật vật với cuộc sống mưu sinh, bị xã hội coi thường. Thời gian trôi qua, cuối cùng ông cũng tìm được chân lý sống của cuộc đời mình, đó là tìm đến với cửa Phật.
Vào đầu những năm đầu thập niên 10 của thế kỷ VII, thời gian này xã hội Trung Quốc có nhiều biến cố lớn: thời thế loạn lạc, chiến tranh liên miên, dân chúng lầm than. Do đó, Đường Huyền Trang chỉ biết tiếp tục sống trong cửa chùa và nghiên cứu Phật pháp.
Vốn có tư chất thông minh từ nhỏ, thông hiểu nhiều văn chương nên chỉ trong một thời gian ngắn nương nhờ nơi Phật, Huyền Trang về cơ bản đã am hiểu mọi triết lý của Phật giáo. Kể từ đó, vị sư trẻ này đi rất nhiều nơi ở đất nước Trung Quốc vừa một phần để chiêm bái vừa để thuyết giáo, phổ độ chúng sinh. Nhờ đó mà tên tuổi của Đường Huyền Trang ngày càng lưu danh nơi nơi, được nhiều người tôn trọng.
Năm 618, nhà Đường thành lập, Đường Huyền Trang rời Lạc Dương để đến với kinh đô Trường An, mục đích chính là để gặp gỡ, tiếp xúc và thỉnh giáo nhiều bậc thánh tăng. Tuy nhiên, càng thỉnh giáo bao nhiêu thì Huyền Trang càng thấy mình có nhiều thiếu sót và đem lòng hoài nghi mọi điều.
Để làm sáng tỏ những hoài nghi, ngài đã có một quyết định liều lĩnh và táo bạo là thực hiện cuộc hành trình Tây du sang Ấn Độ để chiêm bái Phật tích và nghiên tầm giáo lý. Con đường từ Trường An (Trung Quốc) sang Tây Trúc (Ấn Độ) để tìm chân kinh là một chặng đường đầy gian nan và hiểm nguy, nhưng bằng nghị lực, ý chí và hoài bão của bản thân, cuối cùng đã đạt được thành quả mà không cần sự trợ giúp của một ai.
Tính cách của một bậc thánh tăng
Tuy chỉ là một nhà sư trẻ, nhưng với một tấm lòng nhiệt huyết để chuyên tu đạo đức, một lòng hướng Phật, Đường Huyền Trang đã được đánh giá rất cao về cả tâm hồn lẫn nhân cách sống. Cả cuộc đời của ngài sống là để cống hiến cho đời, đem bình an và hạnh phúc đến với chúng sanh. Tên tuổi của ngài không chỉ được biết đến với diện mạo và dáng vẻ mà trên hết còn là tâm hồn và nhân cách cao đẹp của một vị “Phật sống”. Vị chân tăng này đã đi vào đời sống của người dân Trung Quốc như một giá trị vĩnh hằng, là tấm gương đối với các Phật tử của cửa Phật.
Ngay từ khi sinh ra, Đường Huyền Trang đã có một diện mạo khôi ngô, tuấn tú và dáng vẻ oai nghiêm, uy nghi khác người. Tài liệu ghi lại rằng, “Pháp sư cao hơn bảy thước xưa, da hồng hào, với lông mày rộng và cặp mắt tươi sáng... Ngài đi đứng ung dung, khoan thai, luôn luôn nhìn thẳng. Cử chỉ của ngài như dòng sông lớn chảy và sáng sủa như đóa hoa sen nở trên mặt nước."
Sinh thời, Đường Huyền Trang là một con người sống giàu hoài bão và lý tưởng, thích tìm tòi và khám phá sự đời, có lòng kiên nhẫn và quyết tâm trong mọi công việc, có niềm tin và không đầu hàng trước mọi thử thách của cuộc sống. Ngài vốn đã có tính tình cao thượng khi còn rất nhỏ, sẵn sàng rộng mở tấm lòng mình, ưa mộ cổ học, hay các bậc hiền nhân và thánh nhân, chán ghét sự bất công và cám dỗ đời thường.
Không những thế, lòng “từ bi”, đức “độ lượng bao dung” của một vị “Phật sống” luôn thường trực trong con người Đường Huyền Trang. Bởi vậy mà ta luôn tìm thấy một tấm lòng trong sáng, thánh thiện, sự trong sạch và thanh cao trong con người ấy. Ngài luôn đồng cảm và độ lượng cho tất cả mọi người, bất kể đó là kẻ xấu hay người tốt, nghèo hèn hay giàu sang, quyền cao hay hạ liệt. Tình cảm của ngài là tình yêu cho mọi “chúng sinh”.
Trải qua 17 năm ròng rã xa xứ thỉnh kinh, Đường Huyền Trang đã tôi luyện cho bản thân ý chí kiên cường và nghị lực sắt đá phi thường. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho Đường Huyền Trang tự mình vượt qua mọi khó khăn, thử thách ở đời. Tuy với vai trò của một nhà thuyết giáo Phật giáo, song trong con người của Đường Huyền Trang vẫn còn đâu đấy tinh thần của Đức Khổng-Mạnh. Có lẽ do chính xuất thân từ tuổi thơ và thời cuộc mà tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu vào tâm trí của ngài, giúp ngài mau chóng trở thành một nhà chiêm bái, một học giả, một nhà thuyết giáo, một nhà văn hóa lỗi lạc của nền văn hóa Trung Quốc suốt hơn 5.000 năm lịch sử.
Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ
Năm 618, tình hình Trung Quốc có nhiều biến động lớn, trong đó có sự tiêu vong của nhà Tùy và sự trỗi dậy của nhà Đường. Khi nhà Đường lên ngôi, Phật giáo được xem là quốc giáo để thay thế dần Nho giáo. Những thay đổi đó đã tạo nhiều thuận lợi cho Đường Huyền Trang thực hiện cuộc hành trình tìm đến với Chánh pháp. Ông được đi nhiều nơi khắp đất nước Trung Hoa và điểm dừng chân cuối cùng của ông là kinh đô văn hiến Trường An. Tại đây, Huyền Trang có cơ hội được gặp gỡ và tiếp cận với nhiều bậc cao tăng và nhanh chóng lấy được cảm tình của nhân dân Trường An.
Tuy nhiên, người đời có câu: “Học vấn càng cao thì sự nghi ngờ càng lớn”, bên cạnh đó là việc ở Trung Quốc xuất hiện rất nhiều tông phái, khiến cho người tu đạo không biết lấy đâu làm nền tảng. Đối với một con người tài cao, đức trọng như Đường Huyền Trang thì sự không minh bạch ấy là không thể chấp nhận. Sự nghi ngờ lớn dần theo thời gian, Huyền Trang thầm nghĩ chỉ có một cách duy nhất mà thôi, đó là tìm về với nguồn gốc của nó mới luận ra được chân lý đúng đắn. Cuối cùng, Đường Huyền Trang đã có một quyết định táo bạo và liều lĩnh là làm một cuộc hành trình sang đất Phật (Ấn Độ) để hiện thực hóa ý định của mình.
Năm 627, Đường Huyền Trang gửi thư lên vua Thế Dân (tức vua Đường Thái Tông) để thỉnh cầu được sang Ấn Độ lấy kinh. Vua Thế Dân rất vui mừng vì đất nước có những bậc cao tăng thành kính với cửa Phật như vậy nên liền đồng ý. Trước lúc Đường Huyền Trang khởi hành, Đường Thái Tông đã đích thân viết một văn điệp lấy kinh, đóng dấu bảo ấn thông hành, gọi là Thông quan văn điệp. Ý chỉ của Thông quan văn điệp là, Đường Huyền Trang là do Hoàng đế Đại Đường phái đi, các nước phải để cho Đường Huyền Trang đi qua. Đường Thái Tông tiến về phía trước, bỏ vào chén rượu chay một dúm đất, lại tiếp tục dặn dò Huyền Trang: “Thà một lòng lưu luyến đất quê hương, chớ yêu quê người vạn lượng kim”. Ý muốn nói Huyền Trang hãy nhớ mãi nguyện ước thủa đầu, đừng vì xứ người giầu có xa hoa mà quên lời nguyện ước đầu tiên.
Hành trình thỉnh kinh của Đường Huyền Trang
Trong lịch sử Trung Quốc, đã có rất nhiều bậc cao tăng đã hành hương sang đất Phật (Ấn Độ) để thỉnh kinh, nhưng chỉ có chuyến đi của Đường Huyền Trang là ly kì và ấn tượng nhất. Hành trình kéo dài đến hơn 17 năm trời với biết bao khó khăn và trở ngại. 17 năm tha phương nơi xứ người, Đường Huyền Trang phải một mình đối diện với bao nỗi khó nhọc, gian truân nguy hiểm. 17 năm, Đường Huyền Trang cũng nếm trải biết bao cay đắng của cuộc đời con người, nào là sự đố kỵ, ganh ghét, lòng tham và dục vọng v.v...
Các tài liệu đều ghi nhận rằng, vào năm 627, bên nhà Đường Trung Quốc có một vị sư rất trẻ, trạc 25-26 tuổi, với diện mạo “khôi ngô, tuấn tú, cao lớn tráng kiện. Gương mặt trắng, đôi mắt sáng… cốt cách khoan thai… giọng nói thanh nhã, và tác phong oai nghiêm" đã thực hiện một cuộc hành trình sang Thiên Trúc thỉnh kinh.
Hành trình đi đến với đất Phật của Đường Huyền Trang đã đi qua rất nhiều nước, nhiều vùng đất - lãnh thổ, nhiều tộc người kỳ lạ và cũng từ ấy học được rất nhiều điều bổ ích. Đặc biệt, được mắt thấy tai nghe những hiện thực cuộc sống diễn ra xung quanh, rồi cũng tự mình đối diện với biết bao cám dỗ ở đời và đôi lúc tưởng chừng sẽ chán nản, gục quỵ, không đi tiếp. Nhưng với lòng quyết tâm, Đường Huyền Trang vẫn vững chí tiếp tục chinh phục lý tưởng sống. Huyền Trang cứ đi, đi mãi, băng qua những cánh rừng âm u, những sa mạc nóng bức, những vùng đất hoang vu và cuối cùng cũng đến được nơi đất Phật. Đường Huyền Trang được chiêm mộ giáo lý chính thống của Phật giáo, gặp những vị thánh tăng, cuối cùng ngài cũng được thỏa nguyện mong ước bấy lâu mong chờ.
Sau hơn 17 năm bôn ba, 17 năm của tuổi thanh xuân, khi ra đi ngài là một thanh niên trai tráng (25 tuổi) nhưng khi trở về thì tuổi đã xế chiều (42 tuổi), Nhưng Huyền Trang không hề than vãn hay trách phận mà trái lại lấy làm hạnh phúc vì đã thực hiện được ước mơ đã ấp ủ. Ngài đã đem những triết lý đạo Phật từ Ấn Độ ngày đêm nghiên cứu dịch thuật, sau đó ông nhanh chóng trở thành một nhà văn hóa thông thái của Trung Quốc.
Những ngày cuối đời và sự viên tịch của Đường Huyền Trang
Đường Huyền Trang kết thúc chuyến hành hương sang đất Phật, trở về quê hương trong nỗi niềm rạo rực, phấn khởi, và trong sự đón chào nồng nhiệt của nhân dân Trung Quốc. Chuyến Tây du của Đường Huyền Trang đã để lại tiếng thơm lưu danh muôn thuở. Sau chuyến hành trình, Đường Huyền Trang trở về quê nhà với vai trò là một nhà thuyết giáo, nhà chiêm bái và nhà học giả uyên thâm. Ông dành cả quãng đời còn lại để nghiên cứu Phật học và đã dịch rất nhiều cuốn kinh Phật. Ông để lại cho đời một sự nghiệp đồ sộ về Phật giáo, các “luân thường đạo lý” và nguyên tắc sống ở đời.
Sau gần 20 năm nghiên cứu và dịch thuật kinh Phật, Đường Huyền Trang đã dịch xong khoảng 600 quyển. Khi đến độ tuổi ngoài 60 mươi thì tự nhiên Pháp sư cảm thấy mệt, và biết chắc số phận mình rồi cũng sẽ không thể nào tránh khỏi quy luật “sinh-lão-bệnh-tử” ở đời, nên dặn các đồ đệ của mình sau khi ông mất hãy tiến hành tang lễ đơn giản như mọi người dân bình thường, không nên xa hoa, lãng phí, hãy lấy số tiền bạc ấy đem đi cứu giúp cho đời. Sau đó, Ngài còn dặn các môn đệ không được làm phiền ngài trong những ngày ngài chuyên tâm ngồi thiền.
Những ngày cuối đời, Đường Huyền Trang luôn giữ cho tâm hồn mình thanh thoát, thanh cao, trong sạch, không vướng bụi trần. Sự ra đi của Đường Huyền Trang đã để lại trong lòng dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ một niềm tiếc thương vô hạn, chẳng khác gì một ngọn đèn đã tắt đi, trong phòng đầy bóng tối.
Thật vậy, cuộc sống là “vô thường”, con người là “vô ngã”, do đó, những ngày cuối đời và sự viên tịch của Đường Huyền Trang vẫn luôn sáng ngời với tâm hồn và nhân cách cao thượng. Có thể nói, lịch sử luôn là những bài học quý giá và mãi mãi là tấm gương cho hiện tại soi sáng. Tiếp cận Phật giáo tức là ta đang tiếp cận với lịch sử. Chúng ta hãy nhìn thẳng cuộc đời và sự nghiệp của Đường Huyền Trang, hay nói đúng hơn là hành trình đến với cửa nhà Phật của Ngài thì sẽ càng hiểu hơn về lịch sử Trung Quốc một thời kỳ có thể xem là vàng son.
Thực tế cho thấy, chuyến đi của Đường Huyền Trang không dừng lại với vai trò một vị sư đi thực hiện sứ mệnh thỉnh cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh mà còn có ý nghĩa cao hơn khi ông vượt qua hành trình gian khổ đến Ấn Độ cầu chân kinh và tu học. Chuyến đi của ông một lần nữa đã chứng thực cho sự tồn tại của con đường tơ lụa và vai trò của con đường này trong giao lưu văn hóa Ấn Độ - Trung Quốc với chuyến đi của mình. Huyền Trang đã đi qua hai ngả Bắc-Nam của con đường, những ghi chép về tình hình các quốc gia ở Tây vực trong tác phẩm “Đại Đường Tây Vực ký” được xem như “kim chỉ nam” cho các thương nhân, những nhà lữ hành và các sứ đoàn thời sau. Chuyến đi của Pháp sư Huyền Trang thành công ở hai mặt: đạo và đời.
Tuy nhiên, cũng có một sự thật cho thấy, cuộc hành trình sang Ấn Độ của Đường Huyền Trang không chỉ đơn thuần là đi thỉnh kinh mà trên hết đã mở đường cho quan hệ thông thương buôn bán và bang giao hòa hiếu giữa nhà Đường với các quốc gia lân cận. Kể từ khi Đường Huyền Trang hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì Phật giáo ở Trung Quốc bước vào giai đoạn cường thịnh và tiếp tục chi phối đến mọi đời sống của người dân Trung Quốc.
Đường Huyền Trang là một con người như thế đó, suốt cả một đời phụng sự vì Phật pháp, chưa bao giờ có những ý nghĩ gì dành cho riêng mình, dù chỉ một lần. Con người ấy cùng với tính cách ấy sẽ mãi mãi là cây đời xanh tươi trong lý tưởng sống của mỗi con người hôm nay. Người sẽ mãi mãi là bông sen đời đời ngát hương. Sự ra đi của Đường Huyền Trang là một sự mất mát to lớn, chúng ta “thương khóc vì con thuyền từ nay đã chìm trong bể dục vọng, vẫn tràn ngập ánh sáng trí tuệ đã tắt trong khi đêm vô tận chìm trong bóng tối”(10).
Migola Travel Sưu tầm & Tổng hợp
Cùng Migola Travel tìm hiểu một phần con đường mà Đường Huyền Trang đã đi qua!
Hãy tìm hiểu thông tin chi tiết tại đây:
Con Đường Tơ Lụa - Thảo nguyên Tân Cương
Hotline tư vấn: 0366 55 66 77
Trụ sở chính Migola Travel: 1A Công Trường Mê Linh, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh