Xứ Cổ Cách (Vương quốc Guge) được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ mười bởi hậu duệ của vua Lang Darma - người đã trốn khỏi Lhasa sau sự sụp đổ của Vương quốc Tubo. Mặc dù đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn truyền đạo lần thứ hai ở Tây Tạng, xứ sở này chỉ tồn tại khoảng 700 năm và biến mất một cách bí ẩn trong thế kỷ 17.
Hiện nay, những tàn tích của xứ Cổ Cách nằm trên đỉnh đồi gần sông, có diện tích lên đến 180.000 mét vuông. Xung quanh khu vực này bao gồm nhiều nhà ở, nhà trong hang đá, các tu viện ở dưới chân đồi và các cung điện ở trên đỉnh núi. Bên cạnh đó, nó còn được bao quanh bởi các đường hầm và nhiều bức tường rất kiên cố. Điều ngạc nhiên hơn cả rất nhiều công trình ở đây vẫn còn tồn tại với thời gian và trong tình trạng khá tốt mặc dù bị bụi bao quanh. Một trong số đó phải kể đến là đường hầm đá dùng để chứa nước dài gần 2 km (1,2 dặm) bắt nguồn từ dòng sông lên đến đỉnh núi từ thời người dân vương quốc Guge còn sinh sống.
Vương quốc Cổ Cách rất nổi tiếng với những bức tranh tường, tác phẩm điêu khắc và những bản khắc đá còn sót lại trong đống đổ nát. Trong số đó, những bức tranh tường ở Cung điện Trắng, Cung điện Đỏ, Nhà nguyện Yamantaka, Nhà nguyện Tara và Nhà nguyện Mandala luôn được bảo tồn trong tình trạng ổn định. Chủ đề của những bức tranh tường hàng trăm năm tuổi nhưng vẫn lộng lẫy này chủ yếu kể về câu chuyện của Đức Phật, Sakyamuni, Songtsen Gampo, các vị vua của Guge và các bộ trưởng của họ. Bức tranh tường của một nhà nguyện trên đỉnh núi đã mô tả các vị Phật đồng nam và nữ đang tiến hành tu luyện Tantric ở phần trên và cảnh Dakinis tu luyện vô cùng lộng lẫy, quyến rũ ở phần dưới. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của bức tranh tường Guge được coi là tương đương với những hang động Mạc Cao.
Bức tường của xứ Cổ Cách được miêu tả như là một thư viện của các bản khắc đá vô cùng ấn tượng với rất nhiều đá Mani rải rác xung quanh. Hầu hết các tác phẩm điêu khắc theo phong cách Guge đều là những vị Phật vàng và bạc.
Xung quanh khu di tích, vũ khí và xác ướp của những người lính Cổ Cách được khám phá như là dấu vết minh chứng một thời vinh quang và lộng lẫy của xứ xở này.
Tholing – có ý nghĩa là "bay và không bao giờ rơi" - được thành lập bởi Yeshi-O, một vị vua xuất sắc của Vương quốc Cổ Cách vào đầu thế kỷ thứ 10. Yeshi-O là một Phật tử mộ đạo. Lịch sử ghi nhận ông đã gửi 21 thanh thiếu niên để học Phật giáo Tantric ở Kashmir, tuy nhiên chỉ có Rinchen Zangpo và một người khác sống sót trở về. Rinchen Zangpo được biết đến như một bậc thầy dịch giả Phật giáo với vai trò dịch kinh điển Phật giáo và phát triển Phật giáo tại Tholing. Sau khi Yeshi-O bị đánh bại và bắt cóc trong một cuộc xâm lược đầy tham vọng với chủ đích của chính ông muốn cướp đủ vàng để mời Atisha tới Vương quốc Cổ Cách (Guge) để thúc đẩy Phật giáo. Yeshi-O đã hy sinh mạng sống của mình để gửi tiền chuộc cho Atisha. Sau sự xuất hiện của Atisha, tu viện trở nên nổi tiếng hơn và trở thành một trung tâm tôn giáo ở Tây Tạng dưới sự bảo trợ của xứ Cổ Cách. Mặc dù sự hiện diện của nó trở nên mờ nhạt sau sự sụp đổ của xứ Cổ Cách, Tholing vẫn duy trì một vị trí quan trọng ở Tây Tạng sau 900 năm trong việc truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng lần thứ hai.
Trên những sườn núi phía tây bắc của Mt. Dise - đỉnh chính của Dãy Gangdise, có một dòng suối nổi tiếng chảy vào mùa xuân với hình dạng tương tự như một con voi vẽ lên nước bằng vòi của nó. Người bản địa gọi dòng suối này là sông Langchen Khabab (ra khỏi miệng của con voi). Langchen Khabab chạy từ phía tây bắc giữa dãy Himalaya và dãy Gangdise, đi qua Tsanda Dzong của quận Ngari, đi vào lãnh thổ Ấn Độ và cuối cùng đổ vào Ấn Độ Dương.
Lãnh thổ của Tsanda Dzong (quận Ngari, Yiprang, phía nam của Langchen Khabab) có một ngọn đồi màu vàng cao khoảng ba trăm mét. Trên ngọn đồi này là những tàn tích của các bức tường và lâu đài được xem những tàn tích quan trọng nhất của xứ Cổ Cách cổ đại. Lâu đài được xây dựng theo phong cách hướng đến đường chân trời ở điểm cao nhất, ngoài ra là bảy pháo đài và ba đền thờ với chiều cao trung bình khoảng mười mét nằm ở phía đông bắc của đồi. Phía trên sườn đồi có hơn ba trăm hang động và ở giữa có một số bức tường màu sọc đỏ và trắng. Khi kết hợp với nhau, chúng tạo thành một cụm ngôi nhà tuyệt đẹp và được bảo quản hoàn toàn nguyên vẹn. Phía bên trong, các đường hầm chạy theo nhiều hướng phức tạp và được bao quanh bởi một bức tường bảo vệ xây dựng bằng đất vàng với nhiều chạm khắc của Đức Phật. Không khó để thấy rằng vương quốc Guge cổ đại này đã từng vô cùng thịnh vượng và lộng lẫy.
Nếu đi theo con đường ngoằn ngoèo lên đồi đất, bỏ qua những bức tường bị vỡ và nhìn vào khoảng cách từ đỉnh đồi, người ta có thể thấy các dãy núi nằm ở phía nam của lâu đài với hình dáng giống như những ngôi chùa, trải dài về phía bắc Langchen Khabab lấp lánh.
Nhìn lên và xuống bức tường bảo vệ của tòa lâu đài, chúng ta có thể thấy những viên đá cuội tập trung trên đỉnh và dưới chân tường. Chúng được cho là vũ khí vào thời điểm đó. Theo lịch sử, vào đầu thế kỷ XVII khi Vương quốc Guge bị tấn công bởi một số lực lượng bên ngoài, Vua của Guge đã tổ chức cuộc đáp trả tiếp theo nhờ vào vị trí thuận lợi của mình, tuy nhiên những kẻ tấn công cũng củng cố lực lượng bằng cách xây dựng các bức tường cao để tạo ra một lớp bảo vệ. Khi cả hai bên ở thế bế tắc, đối mặt với nhau, lưỡi liềm và giáo, cung và mũi tên, và cuối cùng cả hai bên quay về những tảng đá bao phủ cả vùng núi hoang dã.
Phía nam của lâu đài là phần còn lại của tòa nhà. Mái nhà từ lâu đã sụp đổ và hiện tại nó đang mở ra về phía bầu trời. Các bức tường bị nhuốm màu đen bởi khói và lửa nhưng các vết tích vẫn có thể được nhìn thấy rõ ràng. Đằng sau một bức tường có một căn bếp phục vụ nhà vua xếp chồng đầy củi và phân cừu.
Phía bắc từ khu bếp là một khoảng sân rộng khoảng bốn đến năm ngàn mét vuông. Khu vực sân này có thiết kế giống như sân Deyangshar của cung điện Potala, được sử dụng cho các buổi trình diễn hát, khiêu vũ và các hoạt động giải trí khác. Phía bắc của sân là một đại sảnh lớn với mái vòm đã bị hư hỏng gần hết, chỉ còn lại những bức tường trơ trọi. Bề mặt vữa láng mịn và bóng mượt của chúng đều ở trong điều kiện hoàn hảo và vẫn có thể được nhìn thấy. Sàn của đại sảnh được phủ một lớp lá dày. Hội trường này rõ ràng là nơi nhà vua và các bộ trưởng của ông đã tổ chức các cuộc thảo luận chính thức thời xa xưa.
Bên ngoài lâu đài, có ba ngôi đền nằm giữa đường lên sườn đồi: Đền Đỏ, Đền trắng và Đền Samsara. Mái hiên của các ngôi đền được trang trí với hình chạm khắc của nhiều loài động vật như sư tử, voi, ngựa, rồng, và con công. Những chạm khắc này liên quan trực tiếp đến những huyền thoại của bốn "con sông thiêng" nổi lên ở Mt. Dise. Các bức tường và phần trên của hội trường thánh kinh được bao phủ bởi những bức tranh miêu tả giai thoại của Phật giáo, hoa, cỏ, cây cối, sư tử, voi, ngựa, rồng, con công, vân vân. Các con vật được vẽ bằng sơn và có biểu hiện cảm xúc riêng biệt như niềm vui, cơn thịnh nộ, nỗi buồn, hoặc nỗi sợ hãi. Những hình vẽ này đều được vẽ bằng màu đỏ, xanh, chàm, trắng, rất hài hòa với nhau, thể hiện tất cả các sắc tố tự nhiên được chiết xuất từ khoáng chất bản địa và cây cối. Không nghi ngờ gì khi khẳng định Vương quốc Guge là một nhà nước Phật giáo, và người dân của nó đã thờ cúng động vật như sư tử, voi, ngựa, và con công mà cho đến ngày nay vẫn là đối tượng của sự tôn kính ở Ngari.
Gần lâu đài và đền thờ có hơn mười hang động lưu trữ các di tích lịch sử có giá trị như các loại vũ khí cổ xưa, thuốc súng, dụng cụ nông nghiệp, dụng cụ nấu ăn được viết bằng tiếng Tây Tạng. Những hang động này từng được sử dụng làm kho dự trữ của xứ Cổ Cách. Một số vật dụng khác như bát sứ, bát khôn đồng, chậu gỗ, búa gỗ và những cái cuốc gỗ, yên ngựa, giáp, mũ bảo hiểm, mũi tên, súng cầm tay, kiếm, giáo, lá chắn mây và các loại tương tự. Khí hậu khô cằn và khí quyển của cao nguyên Tây Tạng đã giúp bảo tồn các di tích này trong tình trạng tuyệt vời và không bị hư hại trong nhiều thế kỷ.
Theo hồ sơ lịch sử Tây Tạng, Lang Darma - Tsanpo cuối cùng của triều đại Tubo - đã ra sức tiêu diệt Phật giáo nhưng không thành công, mà thay vào đó đã mất mạng vào tay Lhalung Paldor - một nhà sư Phật giáo. Lang Tranga để lại một nữ hoàng và một người vợ lẽ. Hoàng hậu không có con, còn vợ lẽ có một đứa con trai, và kết quả là cuộc đấu tranh giành quyền thừa kế ngai vàng đã diễn ra. Nữ hoàng đã trở nên ghen tị với vợ lẽ vì đã có một đứa con và vợ lẽ, vì sợ rằng con trai quý báu của cô có thể bị giết, cô đã giữ cho cung điện thắp sáng cả ngày và đêm để bảo vệ nó chống lại bất kỳ kẻ bất lương nào. Cô đặt tên con trai là "O-sung", có nghĩa là "được bảo vệ bởi ánh sáng." Nữ hoàng sau khi nhận ra mình không thể nào giết được đứa trẻ nên đã nảy ra một kế hoạch khác bằng cách lan truyền tin tức về một đứa trẻ là con của Lang Darma trong thời gian khi ông đối mặt với án tử hình. Với ý định rằng đứa trẻ này nên thừa hưởng ngai vàng, hoàng hậu đã gọi anh là "Yumtan", có nghĩa là "dựa vào mẹ". Yumtan đã lên kế hoạch thành công trong việc đưa O-sung trở thành mục tiêu chỉ trích của công chúng. O-sung thẳng thắn và trung thực nhận ra cuộc tấn công của cha anh với Phật giáo đã làm mất lòng người, vì vậy anh đã cố gắng khôi phục nhiều hoạt động tôn giáo. Yumtan, mặt khác, chủ trương thực hiện chính sách khủng bố của Lang Darma. Cuối cùng, hai anh em không còn lựa chọn nào khác ngoài tranh giành hai vùng "Dburu" và "Gyoru". Trong khi đó, các khu vực khác của Tây Tạng như Kham và Yarlung đã nổi dậy, và kết quả toàn bộ Tây Tạng bị ném vào tình trạng chia rẽ với sự nổi dậy của các quốc gia ly khai.
Cuộc chiến giữa hai anh em được tiếp tục bởi các con trai của họ, và cuối cùng con trai của O-sung Palkhortsan đã bị Yumtan giết chết. Hai con trai của Palkhor-tsan, Jide Nyimagon và Tashi Tsepal, cả hai chạy trốn khỏi Lhasa đến các vùng phía Tây của Tây Tạng trong cuộc bức hại các bộ trưởng tôn giáo. Các thừa tác gia tôn giáo khuyên họ phải chạy trốn càng xa càng tốt để duy trì dòng dõi bằng cách chạy trốn đến vùng Ngari, nơi họ sẽ đạt được chỗ đứng vững chắc. Theo lời khuyên này, Jide Nyimagon đã trốn sang Mang-yul, một vùng gần Tso Mapham để tham gia lực lượng với một trưởng bộ lạc gọi là Tashi-tsan có cả vợ con gái. Sau đó người con gái đã mang thai với Jide Nyimagon ba con trai, Palde-gon, Tashi-gon, và Detsug-gon. Khi ba đứa con trai trưởng thành, Jide Nyima-gon chia đất của mình cho ba người: Palde-gon đã tiếp nhận khu vực xung quanh hồ ở Mang-yul, gần Tso Mapham (ngày nay là Porang Dzong); Tashi-gon đã được đưa ra khu vực xung quanh Mt. Sangpo, gần Mt. Dise; trong khi Detsuggon nhận được quyền tài phán về vùng đất đá quanh Guge of Shangshung (khu vực nơi tàn tích Guge nằm ở Tsanda Dzong). Các thế hệ sau này gọi những khu vực này là "ba vùng của ba Gons". Ngari được chia thành ba khu vực ngay cả ngày hôm nay, mặc dù cách phân chia không giống như thời cổ đại là vùng nước (ở Ritu và Gar), vùng núi (ở Tsanda và Purang), và vùng đồng cỏ (trong Getsa và Tsoleg).
Nó cũng là nguyên nhân chứng minh cho việc xứ Cổ Cách là phần còn lại của vương quốc được thành lập ở Tsanda Dzong bởi Detsug-gon, người con thứ ba của Jide Nyima-gon. Phần sót lại của các vương quốc được thiết lập bởi hai anh em khác đang chờ đợi điều tra thêm. Xét từ những hình ảnh và kinh điển Phật giáo và những ngôi đền nằm giữa những tàn tích của Guge, người ta cho rằng con cháu của O-sung tiếp tục tôn trọng niềm tin của mình rằng sự tiêu diệt Phật giáo là không khôn ngoan. Theo các tài liệu trong cuốn Gương mẫu về Phả hệ của các Vua, xứ Cổ Cách tồn tại trong mười sáu thế hệ, trong khi lâu đài cổ xưa mà mọi người thường thấy ở Tsada Dzong được xây dựng và liên tục mở rộng giữa thế kỉ thứ mười đến mười sáu. Xứ Cổ Cách - Vương quốc Guge chiếm một vị trí rất quan trọng trong lịch sử Tây Tạng như một vương quốc hùng mạnh trong suốt bốn trăm năm phân quyền ở Tây Tạng sau sự suy tàn của triều đại Tubo. Trong thời gian tồn tại, Vương quốc Guge đã có những đóng góp to lớn trong việc chống lại các cuộc xâm lăng nước ngoài, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tây Tạng và bảo vệ biên giới phía tây nam của quê hương. Vào một thời điểm, quyền lực của nó thậm chí còn kéo dài về hướng tây về các khu vực quanh Ladakh.
Ngari cho đến ngày nay vẫn là một khu vực bí ẩn và mang nét quyến rũ đặc biệt. Những người leo núi Valiant rõ ràng là tự hào khi đặt chân lên "Mái nhà của thế giới", trong khi các nhà khoa học tự nhiên và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội vô cùng quan tâm đến khu vực bí ẩn sâu xa này. Những ngọn núi thiêng mà các Phật tử tôn thờ từ xưa chắc chắn sẽ giúp du khách cảm nhận được phần nào sự quyến rũ sâu sắc của phong cảnh Ngari.
Migola Travel Sưu tầm & Tổng hợp
Cùng Migola Travel khám phá Xứ Cổ Cách!
Hãy tìm hiểu thông tin chi tiết tại đây:
Hành Hương Núi Kailash - Hồ Manasarovar
Hotline tư vấn: 0366 55 66 77
Trụ sở chính Migola Travel: 1A Công Trường Mê Linh, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh